Thực đơn
Tuyến Tōkaidō chính Lịch sửTuyến đường Tōkaidō lấy tên từ con đường cổ nối vùng Kansai (Kyoto, Osaka) với vùng Kantō (Tokyo, sau đó là Edo) qua vùng Tōkai (bao gồm cả Nagoya). Theo nghĩa đen, đó là con đường Tōkai, hay Con đường xuyên qua Tōkai. Tuyến Tōkaidō không đi theo con đường cũ một cách chính xác, vì con đường này phân kỳ tại Nagoya về phía bờ biển tỉnh Mie; Để đi theo nó bằng tàu hỏa, phải đi theo Tuyến chính Kansai và Tuyến Kusatsu từ Nagoya đến Kusatsu. Các trung tâm dân số lớn nhất ở Nhật Bản nằm dọc theo tuyến đường này - Tokyo, Yokohama, Nagoya, Kyoto, Osaka và Kobe. Các trung tâm này đã phát triển để chiếm một vai trò chi phối hơn bao giờ hết trong chính phủ, tài chính, sản xuất và đời sống văn hóa của đất nước.[3]
Historically, one of the first priorities of tiếng Nhật railway planners was to build a line from Tokyo to the Kansai region, either following the Tokaido route or the northern Nakasendō route. This decision remained unresolved as regional needs were addressed. The first railway in Japan was the line from Shinbashi to Sakuragicho in Yokohama, which opened in 1872; another segment of today's Tokaido Main Line, between Kyoto and Kobe, opened in 1877.
Năm 1883, chính phủ quyết định sử dụng tuyến đường Nakasendo và việc xây dựng một số đoạn được bắt đầu (bao gồm cả tuyến Takasaki ngày nay). Đường sắt được mở giữa Ogaki và Nagahama (1884) và giữa Nagoya và Kisogawa (1886) phù hợp với kế hoạch Nakasendo. Tuy nhiên, đến năm 1886, rõ ràng là con đường Tokaido sẽ thiết thực hơn, và vì vậy kế hoạch Nakasendo đã bị bỏ dở.
Các tuyến giữa Kisogawa và Ogaki, Yokohama và Kozu, và Hamamatsu và Obu được hoàn thành vào năm 1887, và tuyến đầu tiên từ Tokyo đến Kobe được hoàn thành vào năm 1889, khi Kozu và Hamamatsu được kết nối thông qua hành lang Gotemba Line ngày nay, và phân đoạn cuối cùng đã được hoàn thành giữa Kasumigahara và Otsu. Vào thời điểm đó, có một chuyến tàu Tokyo-Kobe chạy mỗi chiều mỗi ngày, mất hơn 20 giờ mỗi chiều.
Tên "Tokaido Line" được chính thức sử dụng vào năm 1895. Vào tháng 10 năm 1895, sau Chiến tranh Trung-Nhật, tuyến đường sắt Sanyo (nay là Tuyến chính Sanyo) bắt đầu được phục vụ. Dịch vụ chuyển phát nhanh giữa Tokyo và Kobe bắt đầu vào năm 1896, dịch vụ giường nằm vào năm 1900 và dịch vụ xe ăn uống vào năm 1901.
Năm 1906, tất cả các tuyến đường chính do tư nhân điều hành đã được quốc hữu hóa theo Đường sắt Hoàng gia Nhật Bản mới được thành lập, vào thời điểm đó có mạng lưới chỉ hơn 7000 km. Bộ ghép nối tự động được giới thiệu trên tất cả các toa xe hàng vào năm 1926. Năm 1930, tàu tốc hành Tsubame ("nuốt") đầu tiên được giới thiệu, giảm thời gian đi lại Tokyo - Kobe xuống còn 9 giờ - giảm đáng kể so với 20 giờ cần thiết vào năm 1889 và 15 giờ vào năm 1903.[3]
Cải thiện cơ sở hạ tầng bao gồm việc hoàn thành đường đôi trên tuyến đường này vào năm 1913, và mở đường 7,8 Đường hầm Tanna dài km, rút ngắn tuyến đường bằng cách bỏ qua một đường vòng quanh các ngọn núi giữa Atami và Numazu. Đây là thay đổi lớn cuối cùng về hướng tuyến của tuyến đường.
Vào đầu những năm 1950, Tuyến Tōkaidō đã trở thành huyết mạch giao thông chính của Nhật Bản. Mặc dù chỉ chiếm 3% hệ thống đường sắt theo chiều dài, nhưng nó đã vận chuyển 24% lưu lượng hành khách và 23% vận chuyển hàng hóa của JNR, và tốc độ tăng trưởng cao hơn bất kỳ tuyến nào khác trong nước. Đến năm 1956, quá trình điện khí hóa được hoàn thành dọc theo đoạn Tokyo-Osaka và với sự ra đời của các đoàn tàu Kodama mới, thời gian di chuyển đã giảm xuống còn sáu tiếng rưỡi. Đường dây này trở nên phổ biến đến mức vé thường xuyên được bán hết trong vòng mười phút sau khi được mở bán, trước một tháng so với ngày đi.[3]
Những hạn chế về năng lực trên Tuyến đường chính Tokaido đã rõ ràng trước Thế chiến thứ hai và công việc bắt đầu trên 1.435 mm (4 ft 8 1⁄2 in) mới 1.435 mm (4 ft 8 1⁄2 in) khổ tiêu chuẩn đường "tàu cao tốc" vào năm 1940. Lưu lượng hành khách liên tỉnh giữa Tokyo, Nagoya và Osaka phần lớn được chuyển sang Tōkaidō Shinkansen sau khi nó được hoàn thành vào năm 1964. Kể từ đó, Tuyến chính Tokaido được sử dụng như một tuyến đi lại và vận chuyển hàng hóa, phục vụ một số lượng rất nhỏ các chuyến tàu khách đường dài (chủ yếu là dịch vụ ngủ đêm và tàu ngủ).
Sau trận động đất Hanshin vào ngày 17 tháng 1 năm 1995, tuyến giữa Takatsuki và Kobe đã bị ngừng hoạt động, với một số đoạn nhất định không thể vượt qua cho đến ngày 1 tháng 4.
Thực đơn
Tuyến Tōkaidō chính Lịch sửLiên quan
Tuyến Tuyến số 1 (Đường sắt đô thị Thành phố Hồ Chí Minh) Tuyến số 2A (Đường sắt đô thị Hà Nội) Tuyến tiền liệt Tuyến số 2 (Đường sắt đô thị Thành phố Hồ Chí Minh) Tuyến Gyeongbu Tuyến tính Tuyến Tōkaidō chính Tuyến số 3 (Đường sắt đô thị Hà Nội) Tuyến SuinTài liệu tham khảo
WikiPedia: Tuyến Tōkaidō chính http://www.jreast.co.jp/E/investor/interview/03.ht... http://news.mynavi.jp/news/2015/03/19/181/ https://www.jreast.co.jp/estation/result.aspx?mode...